Ngoại giao có hoạt động thường xuyên, hoạt động tập trung, phần nào như “trận đánh, chiến dịch” trong nghệ thuật quân sự. Đàm phán, ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam có thể coi là một “chiến dịch, chiến lược” ngoại giao.
Đàm phán marathon
Marathon đàm phán Hiệp định Paris, cuộc đàm phán ngoại giao khó khăn, dài nhất trong lịch sử. Trải qua 4 năm 8 tháng 14 ngày, chia thành 2 giai đoạn: Hội nghị 2 bên (5/1968-10/1968) và Hội nghị 4 bên (11/1968-27/1/1973); với hơn 200 phiên họp, cả toàn thể và họp riêng; gần 500 cuộc họp báo và khoảng 1.000 cuộc phỏng vấn.
Hành trình đàm phán ẩn chứa những trùng lặp đặc biệt. Tháng 12/1965, Nghị quyết Trung ương 12 của Đảng xác định “đánh đến một lúc nào đó, sẽ vừa đánh vừa đàm”. Công tác đối ngoại, mặt trận đấu tranh ngoại giao càng được coi trọng. Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 giáng đòn chí mạng vào ý chí xâm lược. Tổng thống Mỹ B. Johnson phải tuyên bố hạn chế ném bom miền Bắc, hé lộ ý định “rút chân khỏi vũng lầy” chiến tranh. Đúng 5 năm sau thời điểm mở đầu sự kiện Mậu Thân (đêm 30, rạng sáng 31/1/1968), Hiệp định Paris được ký kết (27/1/1973). Tháng 4/1968, hai bên thăm dò, trao đổi chuẩn bị cho phiên họp chính thức đầu tiên (13/5/1968). Cũng thời gian này 7 năm sau, tháng 4/1975, đòn tiến công chiến lược thứ ba, Chiến dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch quyết chiến chiến lược kết thúc thắng lợi.
Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đoàn Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) đã kiên trì, linh hoạt, đấu trí với “ngón nghề” của bốn đời trưởng đoàn Mỹ và cố vấn, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, “bộ óc điện tử” Henry Kissinger.
Hai bên đưa ra gần chục tuyên bố và sáng kiến. Nhiều phiên họp bế tắc kéo dài, giống như “cuộc nói chuyện giữa những người điếc”. Mỹ nhiều lần trì hoãn hội nghị, đơn phương tuyên bố ngừng họp… hòng kéo dài đàm phán để thúc đẩy “Việt Nam hóa chiến tranh” và tạo thế rút dính líu trực tiếp mà vẫn giữ miền Nam Việt Nam trong quỹ đạo của Mỹ. Lãnh đạo và các nhà ngoại giao Việt Nam thấu hiểu âm mưu, thủ đoạn của Mỹ, đề ra và thực hiện tốt phương châm kiên định mục tiêu, nguyên tắc, khôn khéo, linh hoạt, uyển chuyển trong đối sách, giành thắng lợi từng bước, đưa đàm phán đến đích.
Mỹ lợi dụng hội nghị thượng đỉnh với Liên Xô năm 1972; chiến dịch “ngoại giao bóng bàn” (tháng 4/1971) và chuyến thăm Bắc Kinh của Tổng thống Mỹ R. Nixon đầu năm 1972, để ép Việt Nam nhượng bộ. Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ lật tẩy ý đồ của Mỹ: “Chúng tôi không qua một người thứ ba nào cả… có gì thì chúng tôi sẵn sàng thảo luận với các ông”. Đồng thời, Việt Nam kiên trì trao đổi, thông tin, làm rõ lập trường, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em, hạn chế tác động tiêu cực từ chính sách ngoại giao nước lớn của Mỹ.
Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 làm chuyển biến cục diện chiến tranh, phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ chấp nhận đàm phán. Hiệp định Paris buộc Mỹ phải rút quân vô điều kiện khỏi miền Nam, thực hiện phương châm chiến lược làm cho “Mỹ cút”, tạo bước ngoặt, so sánh lực lượng có lợi để cuộc kháng chiến phát triển đến mục tiêu cao nhất, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quân sự và ngoại giao có sự cộng hưởng kỳ diệu, cả không gian và thời gian.
Nơi đất khách quê người, trong giá lạnh của Paris, cái nóng đấu trí căng thẳng từng câu, từng chữ trên bàn đàm phán, hai đoàn ta được Bộ Chính trị chỉ đạo xuyên đêm, được tiếp sức từ thắng lợi trên chiến trường và có chỗ dựa tinh thần từ các cuộc mít tinh ủng hộ của kiều bào, các tổ chức hữu nghị và nhân dân yêu chuộng hòa bình Pháp. Càng thấm thía lời dạy của Bác “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Các “chiến sĩ” trên mặt trận ngoại giao như những “nghệ sĩ” góp phần đưa “tiếng chiêng Việt Nam” vang xa hơn, cuốn hút hơn.
“Hậu phương quốc tế” và những con số “biết nói”
Hậu phương chiến tranh không chỉ là hậu phương tại chỗ, hậu phương lớn miền Bắc mà còn là “hậu phương quốc tế”. Với đường lối chính trị, ngoại giao đúng đắn, kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, của các bộ, ngành; trực tiếp, tiên phong là các cơ quan ngoại giao, tổ chức Việt Nam ở nước ngoài, chúng ta đã tạo dựng, mở rộng, khai thác có hiệu quả “hậu phương quốc tế”. Đó là sự đoàn kết quốc tế rộng rãi, ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần từ các nước, trên các châu lục.
Cốt lõi là tình đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia; sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Hàng trăm km đường vận chuyển chiến lược chi viện chiến trường miền Nam mở phía Tây Trường Sơn, trên đất Lào; nhiều cơ sở khai thác, cung cấp lương thực, thuốc, dụng cụ y tế đặt tại Campuchia. Cuốn sách “Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam” ghi lại những sự kiện, con số ấn tượng. Từ 1973- 1975, Liên Xô đã viện trợ trị giá 654 triệu Ruble, Trung Quốc là 3.250 triệu Nhân dân tệ.
Nội dung, hình thức hoạt động chính trị, ngoại giao phong phú đưa Việt Nam đến với nhân dân thế giới, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân Mỹ và các nước tư bản đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa, quả cảm của dân tộc. Hơn 200 tổ chức, ủy ban, phong trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam ở hầu hết các nước trên thế giới. Chính phủ, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa tổ chức “Ngày Việt Nam”, “Tuần lễ Việt Nam”, “Tháng Việt Nam” và nhiều hoạt động, phong trào, hình thức khác tạo sự ủng hộ lớn về tinh thần cho kháng chiến. Hơn 50 nước có phong trào quyên góp ủng hộ nhân dân Việt Nam, như: “100 triệu Franc… ở Pháp”, “100 triệu Yên… ở Nhật Bản”, “1 triệu… Kuron ở Thụy Điển”. Tại Mỹ có hơn 200 tổ chức chống chiến tranh ở hầu hết các bang; 16 công dân đã tự thiêu để phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Từ máy bay MiG, tên lửa Sam bắn rơi B52, “con ma”, “thần sấm” trên bầu trời Hà Nội, pháo tầm xa dội bão lửa vào kẻ thù, xe tăng nghiền nát lô cốt, hỏa điểm, khẩu AK đến quân phục, thực phẩm chế biến sẵn, túi thuốc của mỗi chiến sĩ… đều góp mặt trong mỗi chiến thắng. Trong điều kiện kháng chiến vô cùng khó khăn, Mỹ quyết đưa miền Bắc “trở lại thời kỳ đồ đá”, thông tin liên lạc quốc tế cách trở, phe xã hội chủ nghĩa có mâu thuẫn, chia rẽ… càng thấy giá trị của ngoại giao, của “hậu phương quốc tế”.
Chuyện kể rằng, một nhà báo nước ngoài hỏi: Nếu không có sự ủng hộ quốc tế, Việt Nam có giành được thắng lợi không? Câu trả lời của lãnh đạo ta: Việt Nam có chính nghĩa, có đường lối chính trị, ngoại giao đúng đắn, chắc chắn được nhân dân thế giới ủng hộ (nghĩa là cái “nếu” không tồn tại).
Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước khẳng định, sự đoàn kết, ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến thắng lợi.
Khẳng định giá trị và những bài học
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao Việt Nam nỗ lực đưa “tiếng chiêng Việt Nam”, hương sắc Việt Nam đến với nhân dân thế giới, bạn bè quốc tế. Ngoại giao như mạch ngầm, dòng suối, bền bỉ, lặng lẽ len lỏi khắp hành tinh, góp thêm nguồn cho “dòng sông Việt” luôn chảy, tràn đầy năng lượng.
Ngoại giao đồng hành, trưởng thành cùng dân tộc, góp phần đưa đất nước tới Đại thắng mùa Xuân 1975, thắng lợi to lớn, có tầm vóc lịch sử và ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Hành trình khẳng định ngoại giao là một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Mặt trận ngoại giao kết hợp chặt chẽ với mặt trận chính trị, quân sự, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối cách mạng của Đảng.
Đồng hành cùng dân tộc, đất nước, ngoại giao kết tinh những bài học vô giá. Bài học đầu tiên là đường lối, quan điểm của Đảng thấm sâu trong các tổ chức, đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác ngoại giao, chuyển hóa thành bản lĩnh, trí tuệ, hành động sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, thành sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, thách thức.
Quan điểm độc lập, tự chủ, giữ vững nguyên tắc, đồng thời linh hoạt, khéo léo trong đối sách là kim chỉ nam cho hoạt động đối ngoại, ngoại giao.
Giữ vững độc lập, tự chủ là nền tảng để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong bối cảnh quốc tế phức tạp, kẻ thù có ưu thế nhiều mặt, ngoại giao khôn khéo xử lý hài hòa các mối quan hệ, nhất là với nước lớn, với các nước có thể chế chính trị khác; phân hóa đối thủ, thêm bạn, bớt thù; tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của các nước, nhân dân thế giới; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp lớn, đánh thắng “đế quốc to”. Đó là tiền đề, cơ sở để Đảng phát triển, khái quát thành quan điểm đối tác, đối tượng, quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp trong giai đoạn hiện nay.
Nghệ thuật đối ngoại, đàm phán trưởng thành vượt bậc, đạt được những kết quả tưởng chừng không thể. Nổi bật là nghệ thuật vừa đánh vừa đàm, giành thắng lợi từng bước, xử lý khéo léo các quan điểm khác nhau của nước lớn đối với phương thức cánh mạng Việt Nam. Vận dụng nhuần nhuyễn nghệ thuật “ngoại giao công tâm”, chinh phục lòng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tiễn chứng tỏ công tác nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược trong lĩnh vực ngoại giao có vai trò quan trọng. Ngoại giao phát huy thế mạnh “nằm trong nhà” đối tượng, đối tác, thông qua cơ quan đại diện ở nước ngoài, các tổ chức hữu nghị, gặp gỡ, tiếp xúc với nhân sĩ, trí thức và các hội nghị, đàm phán… nắm thông tin, tình hình, chính sách, chiến lược của các nước liên quan. Tổng hợp, phân tích, đánh giá lập trường của các nước đối với Việt Nam; cục diện, tình hình thế giới; cung cấp tư liệu, cơ sở, phối hợp với các ngành, cơ quan liên quan đề xuất với Đảng, Nhà nước đối sách, giải pháp ngoại giao phù hợp. Lịch sử ghi nhận những đánh giá, đề xuất quan trọng, tiêu biểu như: ý định, chủ trương đàm phán của Mỹ; khả năng Mỹ đưa quân trở lại miền Nam sau 1973; quan điểm của các nước anh em và khả năng can dự của các nước lớn trước những biến chuyển nhanh chóng, mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam…
Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Chúng ta cũng đứng trước những khó khăn, thách thức mới. Nhiệm vụ của ngoại giao trong giai đoạn mới là phát huy vai trò tiên phong trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam; góp phần phát hiện, ngăn ngừa từ sớm, từ xa các nguy cơ, thách thức, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia.
Những yêu cầu trên đòi hỏi ngoại giao phải vận dụng, phát huy bài học kinh nghiệm, vượt qua chính mình, nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực dự báo, tham mưu chiến lược, phối hợp, hiệp đồng, hoàn thiện phong cách, tác phong làm việc chuyên nghiệp, hiện đại. Chỉ có như vậy, ngoại giao mới xứng đáng với những chữ vàng “tiên phong, đồng hành cùng dân tộc”.