Bên thì cho rằng đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà năm 2001 tại cơ quan công chứng, sinh sống ổn định, thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Bên thì khởi kiện hủy hợp đồng.
Ông Trần Văn H. (sinh năm 1961), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trình bày: Năm 1999, bà Trần Thị N. (em ruột ông H.) có mua căn nhà và đất của ông Trần Văn L., địa chỉ 180/35 Ba Cu, phường 3, TP Vũng Tàu. Sau đó, bà N. đón mẹ (bà Nguyễn Thị H.) và vợ chồng ông H. đến ở cùng tại căn nhà này. Ngày 14/2/2001, vợ chồng ông H. cùng bà N. đến Phòng công chứng số 1 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để ký hợp đồng chuyển nhượng căn nhà trên với giá 60 triệu đồng. Vợ chồng ông giao đủ tiền cho bà N. tại phòng công chứng nhưng hai bên không lập thành văn bản, không có người chứng kiến. Sau đó, bà N. đã giao bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà cho ông H., bà T. đi làm thủ tục đăng ký sang tên.
Cùng ngày, bà N. đã mua một căn nhà khác tại Hoàng Hoa Thám, phường 2, TP Vũng Tàu và chuyển qua sống tại nhà mới. Năm 2004, do căn nhà 180/35 Ba Cu xuống cấp nên vợ chồng ông H. đã đập và bỏ tiền ra xây mới thành nhà 1 trệt, 2 lầu như hiện nay. Quá trình xây nhà, do chưa xin được giấy phép xây dựng nên bị xử phạt hành chính với số tiền 1,5 triệu đồng, quyết định xử phạt đứng tên ông H.
Ông H. khẳng định, thời điểm đó, bà N. hoàn toàn biết việc này nhưng không phản đối hay tranh chấp gì với vợ chồng ông. Đến năm 2006, bà N. lấy chồng và định cư ở nước ngoài. Trước khi đi, bà N. đã giao lại căn biệt thự ở đường Hoàng Hoa Thám cho vợ chồng ông H. quản lý giùm và tìm người cho thuê (có Giấy ủy quyền ngày 17/5/2006 và gia hạn bằng Hợp đồng ủy quyền ngày 10/5/2010).
Những năm về sau, khi về nước, bà N. vẫn lui tới sống cùng vợ chồng ông H. ở căn nhà 180/35 Ba Cu. Năm 2022, vì cần tiền nên ông H. rao bán căn nhà 180/35 Ba Cu. Cho rằng vợ chồng ông H. chiếm đoạt căn nhà của mình nên bà N. khởi kiện vợ chồng ông H. ra TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Bà Tạ Thị T., người đại diện hợp pháp của bà N. khai với Toà, do trước khi ra nước ngoài định cư, bà N. không biết chữ nên không ký vào bất cứ giấy tờ gì, mọi thủ tục giấy tờ của bà đều do ông H., bà T. đi làm và ký tên thay cho bà.
Tuy nhiên, theo nội dung hồ sơ, như bản sơ yếu lý lịch ngày 25/3/1997, sơ yếu lý lịch ngày 17/9/2003, đơn xin xác nhận mất giấy chứng minh nhân dân năm 1997, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 214/CNKH ngày 14/5/2004… đều có chữ ký của bà N., đây là những tài liệu Toà án thu thập tại Công an TP Vũng Tàu, là căn cứ pháp lý để cơ quan này thực hiện các thủ tục hành chính về hộ tịch cho công dân.
Mặt khác, bà N. cũng là người yêu cầu Toà án sử dụng các mẫu chữ ký này để giám định nghĩa là bà đã xác nhận chữ ký này là của mình.
“Bà N. nói chúng tôi giả mạo chữ ký trong hợp đồng nhưng lại không đưa ra được bất cứ căn cứ nào để chứng minh cho việc công chứng viên Vũ Thanh H. vào ngày 14/02/2001 đã có hành vi vi phạm pháp luật khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng ngày 14/2/2001 giữa bà N. và vợ chồng tôi. Bà N. nói không biết chữ nhưng cùng thời điểm ký hợp đồng với chúng tôi, bà N. còn ký hợp đồng nhận chuyển nhượng khác, suốt từ năm 2001 đến năm 2022, bà N. ký rất nhiều hồ sơ tại Phòng công chứng số 1 nhưng bà không thừa nhận bất cứ chữ ký nào là của bản thân bà, quá là vô lý”, ông H. nói.
Cũng theo tài liệu, từ năm 2001 đến nay, ông H., bà T. nộp thuế đầy đủ đối với căn nhà do ông bà đứng tên ở địa chỉ 180/35 Ba Cu, toàn bộ giấy tờ kê khai thuế đều đứng tên ông H.
Toà án cũng nhận định, Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất ngày 14/2/2001 được lập tại phòng công chứng và bên nhận chuyển nhượng đã đăng ký việc chuyển nhượng tại cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật tại thời điểm ký hợp đồng.
Luật sư Nguyễn Trọng Ân (Đoàn Luật sư TP.HCM) cho rằng, chữ ký của bà N. là dạng chữ ký không ổn định, bởi lẽ chính bà N. không thừa nhận bất kỳ mẫu chữ ký nào đem đi giám định (bà khai mình không biết chữ).
Theo luật sư Ân, tài liệu chứng cứ khác thể hiện việc chuyển nhượng này đã hợp pháp hơn 20 năm trước (2001), cụ thể chuyển nhượng tại Phòng công chứng nhà nước, bà N. đã bàn giao nhà, giấy chứng nhận (chuyển khẩu đi nơi khác), UBND đã cập nhật tên ông H. quản lý sử dụng, xây dựng mới, đóng thuế, xử phạt hành chính liên tục hơn 20 năm, bà N. biết không phản đối…
Theo bản án số 01/2024/DS-ST ngày 26/1/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Toà chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị N. đối với ông Trần Văn H. và bà Đặng Như T. Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở giữa bà N. với ông H., bà T. lập ngày 14/2/2001 tại Phòng công chứng số 1 tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vô hiệu toàn bộ.