Cỗ máy kinh tế của các quốc gia trong ASEAN nửa đầu năm 2022 được đánh giá khởi động lại mạnh mẽ. Tuy nhiên, mới đây, các nhà kinh tế đã điều chỉnh dự báo tăng trưởng năm 2023 cho 5 nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á do lo ngại về sự suy giảm toàn cầu trong bối cảnh lãi suất tăng ở Mỹ.
Tăng trưởng kinh tế khu vực Đông Nam Á đã phục hồi mạnh mẽ trong nửa đầu năm 2022 khi các nền kinh tế mở cửa trở lại, xuất khẩu từng bước phục hồi. Ở một số nền kinh tế lớn của khu vực, tăng trưởng 06 tháng qua thậm chí còn cao hơn dự báo.
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng kinh tế của cả khối ASEAN ở mức 4,8% trong năm nay và sẽ tăng lên 5,2% vào năm sau. Tuy nhiên, khi nền kinh tế ASEAN đang thời điểm vào guồng thì lại gặp phải nhiều thách thức lớn.
Căng thẳng địa chính trị, giá nhiên liệu tăng cao, giá lương thực cũng tăng vọt, tỷ giá hối đoái biến động… Tương tự như hầu khắp các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam Á cũng đứng trước áp lực lạm phát hay nguy cơ suy giảm đà tăng trưởng trong nửa cuối năm.
Mới đây, theo khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Nhật Bản (JCER) và Nikkei, tổng sản phẩm quốc nội của Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan dự kiến sẽ tăng 4,3% vào năm 2023, giảm so với con số 4,8% trong cuộc khảo sát trong tháng 6. Tăng trưởng của mỗi quốc gia cũng đã được điều chỉnh giảm.
Cụ thể, dự báo tăng trưởng GDP của Indonesia giảm từ 5,1% xuống 4,9%, Malaysia từ 4,6% xuống 4%, Philippines từ 5,6% xuống 5,4%, Singapore từ 3,5% xuống 2,2% và Thái Lan từ 4,4% xuống 3,7%. Trong khi đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến sẽ tăng lãi suất hơn nữa để kiềm chế lạm phát. Các đồng tiền châu Á dự kiến sẽ giảm giá và điều đó sẽ khiến các Ngân hàng Trung ương phải tăng lãi suất.
Các nhà kinh tế cho rằng việc kinh tế Mỹ giảm tốc và tiêu thụ giảm có thể dẫn đến châu Á xuất khẩu yếu hơn, điều này sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng của khu vực trong năm tới. Đối với Thái Lan, những lo ngại về suy thoái toàn cầu gây ra bởi việc thắt chặt tiền tệ của Mỹ có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu của nước này.
Sự bất ổn của nền kinh tế Trung Quốc cũng tạo áp lực sang khu vực Đông Nam Á khi nước này đang thực hiện chính sách Zero Covid nghiêm ngặt cùng lo ngại về cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực bất động sản. Hiện, Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng của nhiều nước châu Á và là nguồn khách du lịch lớn nhất đối với một số nước trong khu vực.
Việc Trung Quốc giảm tốc là rủi ro đáng lưu ý trong 12 tháng tới đối với các nước như Thái Lan, Singapore và Malaysia. Theo Mohd Sedek Jantan, Trưởng bộ phận Tư vấn và nghiên cứu tài sản tại UOB Kay Hian Wealth Advisors, Malaysia xem Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của mình và sự sụt giảm của kinh tế Trung Quốc có thể gây ảnh hưởng không tốt đối với một số lĩnh vực và công ty địa phương.
Trung Quốc hiện chiếm khoảng 40% hàng xuất khẩu của Malaysia. Ngoài nền kinh tế, cuộc khủng hoảng tại Đài Loan cũng là mối lo ngại đối với một số quốc gia láng giềng vì đây là đối tác thương mại lớn về nguyên liệu thô và tiêu dùng.
Trong cả năm 2022, các nhà kinh tế dự báo 5 nền kinh tế lớn của Đông Nam Á sẽ tăng trưởng ở mức bình quân là 5%. Các nhà kinh tế kỳ vọng tăng trưởng GDP của Indonesia sẽ tăng 5,1%, Malaysia 6,9%, Philippines 6,5%, Singapore 3,8% và Thái Lan 3,2%.
Tuy nhiên, những biến động này cũng giúp các nước Đông Nam Á hưởng lợi nhuận từ sự thay đổi trong sản xuất. Các nhà sản xuất liên tục đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ, trong khi chính sách Zero Covid đang cản trở sản xuất tại Trung Quốc. Nền kinh tế Đông Nam Á cũng đang tạo ra động lực lớn hơn về sản lượng, bao gồm việc xuất khẩu tăng trưởng ổn định.
Giá lương thực, nhiên liệu và hàng hóa tăng… đang có lợi cho các quốc gia xuất khẩu với số lượng lớn. Trong đó, Việt Nam được nhận định có cơ hội trở thành “con hổ châu Á mới”. Ngân hàng UOB của Singapore đã nâng mức dự báo GDP cả năm 2022 của Việt Nam lên 8,2%, cao hơn mức công bố 7% trước đó.
Điều này nhờ yếu tố thứ nhất là sự bùng nổ của tầng lớp giàu có tại Việt Nam. Thứ hai là việc tài trợ cho khởi nghiệp. Thứ ba là sự bùng nổ của năng lượng tái tạo. Thứ tư là sự phát triển của thị trường bất động sản. Thứ năm là nhu cầu cơ sở hạ tầng lớn và cuối cùng là sự “khát” lao động có trình độ chuyên môn cao, có khả năng lãnh đạo các doanh nghiệp ứng biến linh hoạt trước các biến động của thị trường.